Thăm Quảng Châu – nhớ Bác
Tôi đã nhiều lần đến Trung Quốc ở nhiều thời điểm khác nhau, đã đến Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân… đến Vạn Lý Trường Thành, dạo Di Hòa Viên… và vào cả khu Trung Nam Hải trong những chuyến công tác. Tuy nhiên, vùng đất để lại trong tôi nhiều ấn tượng lại là Quảng Châu, Thủ phủ của tỉnh Quảng Đông, là một trong ba thành phố lớn nhất của Trung Quốc.
Dấu ấn sâu thẳm đối với riêng tôi đó là thành phố kinh đô đầu tiên triều đại chính thống của Việt Nam bởi đế vương Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) và người vợ yêu quí của vua Triệu là hoàng hậu Trình Thị Lan Nương. Họ Trình của dòng tộc chúng tôi tự hào khi biết trên 2.200 năm về trước đã có người con gái họ Trình trở thành hoàng hậu của triều đại đầu tiên của nước Nam Việt. Sử sách một thời đánh giá không đúng về Triệu Đà, nhưng ngay thời kỳ đầu cách mạng, Bác Hồ trong diễn ca “Lịch sử nước ta” đã viết: “Triệu Đà là vị hiền quân/Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo cũng nhắc đến nhà Triệu “Khởi Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước/cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên xưng đế một phương”. Các triều vua đã cho lập đền thờ Triệu Đà ở Xuân Quan (Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) và đền thờ hoàng hậu Trình Thị Lan Nương ở Đồng Xâm (tỉnh Thái Bình). Khi về đền Đồng Xâm, chúng tôi thấy ở đây có tượng của vua Triệu Đà và hoàng hậu Trình Thị Lan Nương. Hàng năm, lễ hội rất linh đình. Bà Trình Thị Lan Nương là một người con gái nhan sắc, nết na và có tài thơ ca. Bà là người khởi xướng nên làng hát chèo và làng ca trù. Phải chăng bà là tổ của nghệ thuật hát chèo ngày nay? Trong quá trình nghiên cứu tôi được biết rõ hơn về nguồn gốc của Triệu Đà. Ông nguyên là Nguyễn Thận, quê ở Vân Nội, Thanh Oai, Hà Nội. Bố của Nguyễn Thận là Hùng Dục Công, em trai của vua Hùng thứ 18. Mẹ là bà Trần Thị Quý. Lúc bé, Nguyễn Thận ở Chèm (Hà Nội) với bố mẹ. Khi Thục phán An Dương Vương đánh chiếm Văn Lang thì ông bị lưu lạc về Quảng Tây. Một ông quan tỉnh Quảng Đông thấy Nguyễn Thận khôi ngô khỏe mạnh nên nhận làm con nuôi và đổi tên là Triệu Đà, Triệu Đà nói được tiếng Việt và tiếng Hoa. Khi mất, mộ Triệu Đà được di về táng ở Bình Phán, Thanh Oai, Hà Nội. Như vậy, Triệu Đà là người Việt Nam, là người dựng ra nước Nam Việt gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây và kinh đô ở Phiên Ngung tức thành phố Quảng Châu ngày nay. Trong 97 năm của 5 đời vua nhà Triệu đã giữ được nền độc lập cho nước Việt.
Tôi hơi lan man về lịch sử, vì đâu ngờ mấy ngàn năm trước có chuyện hay như vậy, tiên tổ tộc họ Trình của chúng tôi có người phụ nữ làm hoàng hậu đã từng sống hạnh phúc với Triệu Đà và sinh ra Trọng Thủy (để lấy Mỵ Châu) cũng tại mảnh đất Quảng Châu này.
Tôi đã đến Quảng Châu từ những năm còn nghèo đói. Ngày đó, đường sá đi lại rất chật chội, nhỏ hẹp, nhà cửa lụp xụp và cuộc sống khó khăn. Người Quảng Đông ngày nay còn món cháo loãng ăn với ca-la-thầu (đầu củ cải muối) là món ăn của thời kỳ nghèo khó kéo dài ở xứ này.
Ngày nay, Quảng Châu là thành phố sầm uất vào loại nhất, phát triển nhanh trong một qui hoạch bền vững. Hạ tầng đường sá 3, 4 tầng, nối cao tốc tỏa về các ngã. Quảng Châu kéo dài nối với Thẩm Quyến, Phật Sơn, Đông Quan Quảng Đông đông đúc tấp nập trở thành một thành phố có dân số lên gần 14 triệu người, với người nhập cư chiếm đến 40% nên có tên gọi là “Thành phố toàn cầu”. Sân bay Bạch Vân của Quảng Châu ngày trước rất, rất bé nhỏ, chỉ có hai ống lồng. Ngày nay là một sân bay hiện đại vào tốp 20 sân bay lớn nhất thế giới mỗi năm vận chuyển 45 triệu khách. Ở Quảng Châu đã cấm xe Hon đa từ hơn chục năm và có 8 tuyến tàu điện ngầm, mỗi ngày vận chuyển hàng triệu người đi lại. Tăng trưởng của Quảng Châu luôn ở mức trên dưới 7% và GDP bình quân đầu người trên 24.000USD, một con số rất đáng để chúng ta suy nghĩ - một xứ sở từ chỗ người dân phải sống chỉ có cháo loãng, bánh bao và dưa muối đầu củ cải, ngày nay có mức thu nhập bình quân gấp mười lần những thành phố lớn của Việt Nam ta (?). Đêm đêm từ cửa sổ khách sạn 5 sao nhìn ra Quảng Châu như một bầu trời rực rỡ bởi ánh đèn đủ màu, có lẽ trên thế giới ít thành phố nào có đèn đêm nhiều màu và rực rỡ như ở đây. Tháp Quảng Châu cao 600 mét, xếp thứ hai sau độ cao của tháp truyền hình Tokyo và đối xứng với tháp Tây Quảng Châu, còn gọi là Trung tâm tài chính quốc tế của Quảng Châu cao 103 tầng (trên 438 mét).
Tháp Quảng Châu không chỉ là tháp truyền hình mà nó còn là một nơi thu hút khách du lịch. Khách có thể lên tháp để ngắm toàn cảnh, ăn bữa trưa giữa trời mây, hoặc đêm nhâm nhi tách café để ngắm Quảng Châu. Đặc biệt, tháp Quảng Châu được lắp đặt hệ thống ánh sáng khá độc đáo, nhiều màu sắc luôn thay đổi rất uyển chuyển, là một nơi trình diễn ánh sáng nghệ thuật, đứng ở bờ sông Châu nhìn lên, tháp cao sừng sững với ánh sáng tự động đổi mình soi bóng xuống dòng Châu Giang rất lung linh, huyền ảo.
Còn tháp Tây Quảng Châu như một thành phố trụ, với chiều cao 438 mét, nó có 250.000 mét vuông sàn. Sáu chục tầng đầu tiên là văn phòng và dịch vụ, tầng 69 lên đến tầng 98 là khách sạn Bốn mùa. Nếu tính bình quân mỗi người sử dụng trên mười mét vuông thì tòa tháp có sức chứa trên hai vạn người.
Ở thành phố này, về điểm du lịch, về danh thắng thì có nhiều, rất nhiều. Tuy nhiên, phần sau đây, tôi muốn dành để nhắc về những hoạt động của Bác Hồ trong những năm ở Quảng Châu.
Mười hai năm sau khi rời Bến Nhà Rồng bôn ba các nước Pháp, Mỹ, Anh, Bác đã đến Liên Xô. Ở đây Bác hoạt động trong quốc tế Cộng sản, nhờ đó Bác học được nhiều về Chủ nghĩa Mác, về cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, về Chủ nghĩa cộng sản. Bác biết nhiều về tình hình nước nhà, tình hình thế giới và Bác quyết định trở về cứu nước. Sự thôi thúc đó buộc Bác phải lựa chọn, về đâu? Thái Lan, Campuchia, Lào, hay Singapore?
Bác xác định muốn làm cách mạng trước hết phải có con người, phải có lớp người lãnh đạo và phải có tổ chức. Quảng Châu là vùng đất gần Việt Nam và nhóm thanh niên yêu nước Việt Nam đang tập trung ở Quảng Châu, có cụ Phan Bội Châu, có tổ chức Tâm Tâm Xã một tổ chức cấp tiến của những chiến sĩ Việt Nam như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong… và nóng bỏng hơn, giục giã hơn với Bác là sự kiện Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Đông Dương Henri Merlin đang trên đường từ Nhật về Việt Nam dừng chân ở Quảng Châu. Phạm Hồng Thái với sự hỗ trợ của Lê Hồng Sơn đã giả dạng nhà báo vào phòng tiệc. Hai quả lựu đạn giấu trong máy ảnh. Ngày đó, máy ảnh rất to, mang đi rất lỉnh kỉnh, thường phải có tấm vải đen che kín. Phạm Hồng Thái đã ném hai quả lựu đạn vào giữa bàn tiệc, nhưng một quả không nổ và toàn quyền Merlin chỉ bị thương… Cảnh sát, mật vụ ập vào bắt Phạm Hồng Thái. Người thanh niên 28 tuổi ấy đã dũng cảm vượt qua hàng rào bủa vây và lao về phía bờ sông Châu Giang, anh quyết quyên sinh để không rơi vào tay giặc. Sự kiện “Quả bom Sa Diện”, gương hy sinh anh dũng của Phạm Hồng Thái càng thúc giục Bác hơn. Bác thấy rõ Quảng Châu là căn cứ địa quốc tế để gây mầm cho cách mạng nước nhà. Bác đã chính thức xin quốc tế cộng sản cho Bác về Quảng Châu để xây dựng phong trào cách mạng ở Việt Nam. Nhưng “Vì lý do này đến lý do khác, hết tuần này sang tuần khác, hết tháng này sang tháng khác” đề nghị của Bác chưa được giải quyết (Hồ Chí Minh biên niên sử - NXB Chính trị quốc gia). Bác đã phải cầu cứu các đồng chí cộng sản Pháp tại Quốc tế cộng sản. Cuối tháng 9 năm 1924, Quốc tế cộng sản đã có quyết định chính thức cử Bác sang Quảng Châu công tác, nhằm xúc tiến xây dựng tổ chức cộng sản ở Đông Dương và chi phí do Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản đài thọ. Quốc tế Cộng sản bố trí Bác đi Quảng Châu trong vai phóng viên thường trú của hãng Thông tấn Nga Rosta với bút danh O. Lus. Ngày 11 tháng 11 năm 1924, con tàu mang Quốc kỳ Xô Viết ngược dòng sông Châu đưa Bác đến Quảng Châu. Khi đó M. Borodin, một người quen của Bác ở Liên Xô đang là Trưởng đoàn cố vấn của Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn, Bác với tên là Lý Thụy được giao nhiệm vụ phiên dịch cho phái đoàn Borodin. Trong một dịp trao đổi với Giáo sư Hoàng Tranh, một nhà khoa học Trung Quốc cả đời nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Giáo sư Hoàng Tranh cho rằng: Năm 1924, Tôn Trung Sơn vừa thành lập Chính phủ Cách mạng, xác định chính sách “Liên Nga, liên cộng, phù trợ công nông”, một phong trào cách mạng đang sôi động. Những người bạn Trung Quốc của Hồ Chí Minh quen thân hồi ở Pháp những năm 1920 như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi… đang có mặt ở đây, các nhà chí sĩ, những thanh niên ưu tú Việt Nam cũng có ở Quảng Châu. Quảng Châu khi đó được gọi là “Mạc Tư Khoa của Phương Đông”, có phái đoàn cố vấn của Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn. Đó chính là những thuận lợi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy, nên Người đã quyết định đến Quảng Châu để xây dựng nền tảng cho Đảng Cộng sản Việt Nam, cho cách mạng Việt Nam.
(còn nữa)
Ký của Trình Quang Phú
Gửi bình luận