Quê tôi sau chiến tranh
1 . Những ngày hòa bình đầu tiên năm 1975, niềm mong chờ lớn nhất của ba tôi là được nhìn thấy người cha thân yêu của mình trở về sau hơn 20 năm biền biệt Bắc - Nam. Nhưng ông nội đã mãi mãi không trở về và cha tôi đã nhận ra một điều: Chiến tranh đã lấy đi người cha của mình từ khi ông còn là đứa bé chưa tròn 2 tuổi. Sau chiến tranh, công việc quan trọng nhất của ba là ra Bắc tìm phần mộ của ông nội đưa về quê đúng như truyền thống và đạo lý của người Việt mình: “Sống gửi thác về”... Ông nội đã trở về trong vòng tay của người thân để mãi mãi được nằm lại với mảnh đất quê hương và có thể ông đã mỉm cười nơi “suối vàng” khi những giọt máu mà ông đã sinh thành nơi miền Bắc cũng theo mẹ về nhận mặt anh em, họ hàng, quê quán. Trong nỗi mừng mừng tủi tủi hai người mẹ và những đứa con ruột rà máu mủ của hai miền đã gặp nhau như chưa hề có sự phân ly, chưa hề có chiến tranh bom rơi, đạn nổ dằng dặc mấy chục năm trời…
2. Trước mặt nhà tôi là nhà bác Chiu. Tính cách nông dân của bác nổi bật với những việc làm, những ngược đời không giống ai. Ví như cứ trưa đứng bóng khi mọi người đang thiu thiu nghỉ ngơi là bác vác cuốc ra đồng; còn những lúc trời mát mẻ thì bác hay nằm vắt chân lên thành cửa sổ nhà và hát bolero... Giọng bác khản đặc vì hút thuốc lá nhiều nhưng có nhiều đoạn nghe cũng rất mùi. Cạnh nhà tôi là nhà chú Cứ. Chú bằng tuổi ba tôi, bị bệnh tim bẩm sinh từ nhỏ. Chú kể: “Hồi tui ra học tập ở miền Bắc khi còn nhỏ, bác sĩ nói tui sống không lâu nữa, rứa mà bây chừ vẫn còn sống được là may!”. Chú Cứ cũng thích hát những lúc làm việc, nhưng hát độc 1 bài “Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh”. Chếch nhà một chút là nhà ông Thắng. Ông suýt soát tuổi ông nội nhưng vẫn hay qua nói chuyện thân mật với ba tôi như một người bạn. Tôi chỉ thấy ông Thắng hát một lần duy nhất vào ngày lễ đầu năm; ông đứng nghiêm như chào cờ rồi cất giọng trầm hùng: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!”. Ba tôi cũng ít khi hát, nhưng khi ông hát là hết mình giọng cao: “Nếu là chim tôi sẽ là loài bồ câu trắng!”... Ông Thắng đi tập kết năm 1954, chú Cứ cũng ra Bắc học tập khi còn nhỏ. Bác Chiu và ba tôi ở làng rồi đi lính như bao trai làng khác. Khi chiến tranh, có thể họ ở hai đầu chiến tuyến; rồi cuộc chiến kết thúc, họ may mắn trở về, gặp lại những người hàng xóm cũ trong tình thương mến thương. Cái tình quê sâu thẳm đã là sợi dây kết nối những người đàn ông thôn trang này sống với nhau rất chan hòa, thương yêu và thẳng thắn trong mọi công việc. Hòa bình, họ lại là những nông dân hiền lành, chất phác cuốc bẫm cày sâu trên cánh đồng quê mẹ. Thỉnh thoảng, vào những đêm trăng sáng trước sân nhà tôi, những người đàn ông trong xóm lại ngồi bên ấm chè xanh cùng nhau nói chuyện xưa, chuyện nay, chuyện Bắc, chuyện Nam, chuyện ruộng đồng hay bao chuyện đời thường khác và luôn rộn rã tiếng cười…
3. Tôi là một trong nhiều người may mắn không chứng kiến chiến tranh nhưng hậu chiến tranh thì mở mắt ra đã thấy. Tôi còn nhớ bậc thềm của nhiều gia đình quê tôi những năm đầu hòa bình không phải được xây bằng gạch hay bờ lô mà được đắp bằng đất sét và chất chung quanh là những chiếc vỏ đạn 105 lù lù. Những mảnh bom vỡ có khi được làm thành chiếc cầu bắc qua trước ngõ vào mỗi nhà và có khi được treo lên trên những cây cổ thụ làm chiếc kẻng của đội sản xuất báo hiệu giờ ra đồng hay mỗi khi hội họp những năm đầu hòa bình. Cũng chẳng ai dạy cả mà trẻ con xóm tôi có thể kể vanh vách từng loại vũ khí từ bom bi, M79, đạn 105, 125, AR 15 rồi đạn đại liên, tiểu liên… Nhớ cảnh cả xóm quê sáng rực lên đến mấy phút trong đêm giao thừa, khi ông Tuần đốt quả pháo sáng mà ông nhặt được trong bụi cây nhà ông để chào năm mới. Rồi nữa là mùa gió Lào, trẻ con trong xóm đứa mô cũng bới cơm nước đi nhặt nhôm đồng bán kiếm tiền ăn vặt. Tờ mờ sáng cả bọn rủ nhau đi lên độn Ổ Gà, độn Thanh Hương, hay có khi ra tận biển Khê của Quảng Trị (những địa danh đã từng xảy ra những trận đánh khốc liệt) để tìm phế liệu là những vỏ đạn bằng đồng rơi vãi và có cả những chiếc bi đông, mũ cối của chiến tranh để lại… Chừ nghe kể lại về sự nguy hiểm của bom đạn sau chiến tranh mới thấy lạnh cả người bởi không ít lần cả bọn cầm mấy viên M79 bằng nắm tay ném đùa nhau hay chuyện gõ đầu đạn đại liên lấy thuốc súng đốt chơi vui. Cũng may là trẻ con xóm tôi không đứa mô xui xẻo vì bom đạn phát nổ trong những lần nghịch ngợm như thế. Có một buổi chiều, đang ngồi học, bỗng một tiếng bom nổ lạnh lùng chát chúa cạnh trường làm nháo nhác cả cô trò. Một quả bom bi đã phát nổ và nạn nhân là nhóm trẻ chăn trâu, dùng bom bi để chơi trò bi sắt. Mấy chục năm rồi nhưng cứ nghe tiếng nổ đâu đó là lại rùng mình nhớ lại cảnh hãi hùng buổi chiều hôm đó…
Phi Tân
Gửi bình luận