Những ngôi chùa lưu dấu tiền nhân, kỳ 1
Kỳ 1: Chùa Hội Khánh gắn Đạo Pháp với dân tộc
Với chiều dài lịch sử tôn giáo, kiến trúc mỹ thuật và truyền thống yêu nước gắn liền đạo pháp và dân tộc, nhiều ngôi chùa cổ ở Nam bộ đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Tuy nhiên, ít ai để ý những ngôi chùa cổ còn là nơi quy ẩn của các nhân sĩ, nhà nho, nhà sư yêu nước… mà di sản của họ để lại đến giờ vẫn còn lưu giữ một cách trang trọng.
Di tích lịch sử văn hóa quốc gia chùa Hội Khánh
Chùa Hội Khánh toạ lạc ở phường Phú Cường, TP. Thủ Dầu Một, được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ 18, nằm giữa rừng dầu có tuổi quá 300 năm. Chưa hẳn đây là ngôi chùa cổ nhất tại Bình Dương, nhưng theo Hòa thượng Thích Huệ Thông – Phó Tổng thư ký Hội đồng Trị sự, Chánh văn phòng 2 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Trưởng ban Trị sự GHPG tỉnh Bình Dương; Trụ trì chùa Hội Khánh – thì, đây là ngôi chùa được xếp vào hàng lâu đời của địa phương.
Kể từ lần trùng tu đầu cách đây nhiều thế kỷ (1891), đến nay có thêm ít nhất 6 lần trùng tu nữa nhưng cơ bản đây vẫn là ngôi chùa hiếm hoi còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu. Nét nổi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử, văn hóa nghệ thuật, kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm cho đến nay vẫn được bảo tồn, kể cả nhiều đồ tự khí. Trong đó nhà chùa còn lưu giữ bộ mộc bản in kinh sách, y văn cổ cách đây trên 120 năm, rất có thể đây là bộ mộc bản sớm nhất ở Bình Dương. Quan sát ở gian chánh điện với dãy kèo cột, vách gỗ… tất cả đều được chạm khắc công phu, sắc sảo. Bên cạnh đó còn có gần 100 bức tượng bằng gỗ mít tạc các vị La Hán và Thập điện Minh Vương. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng, mang dáng vẻ và thần sắc khác nhau. Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị Bồ Tát tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, mang đậm nét đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ truyền thống Bình Dương xưa. Trong đó phải kể đến những bàn tay tài hoa, độc đáo của lớp thợ mộc mỹ nghệ xứ Thủ hồi cuối thế kỷ 19 như Trương Văn Cang, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Xù. Họ là những nghệ nhân trứ danh một thời đã tạo nên những tuyệt tác nghệ thuật không những riêng cho chùa Hội Khánh mà còn làm rạng danh cho cả nghề mộc mỹ nghệ đất Thủ, đến nay những tác phẩm nghệ thuật này vẫn còn gìn giữ gần như nguyên vẹn.
Phía sau chánh điện là gian nhà gỗ lớn 5 gian 2 chái, vừa là giảng đường vừa là nơi để các thiện nam tín nữ tụ hội dâng hương kính Phật. Bàn thờ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1862 – 1929) và bài vị của các vị sư trụ chùa quá cố đều được đặt tại các vị trí trang trọng trong gian nhà này. Điều đó cho thấy lúc sinh thời cụ Phó bảng chắc hắn có một khoảng thời gian, hoặc một vị trí ở ngôi cổ tự này!
Hoà thượng Thích Huệ Thông, trụ trì chùa Hội Khánh trong một lần tiếp xúc đoàn báo chí vào cuối tháng 3/2019
Đó cũng là điều mà hầu hết du khách đến viếng chùa Hội Khánh cảm nhận. Hơn nữa, nơi đây không chỉ nổi tiếng về niên đại thành lập mà còn mang giá trị cao về kiến trúc nghệ thuật, xứng đáng tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ trong vùng. Bởi Bình Dương từ lâu còn được biết là xứ sở của nghệ thuật điêu khắc gỗ, tranh sơn mài, nên các chùa đều có kiến trúc đẹp, nội thất thường trang trí nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhất là hệ thống tượng thờ thì ít có nơi nào sánh kịp.
Nói riêng về cảnh chùa ở đây cũng như nói chung về bốn thiền môn, bên ngoài tiền điện dễ thu hút du khách bởi ba bài thơ “Cảm tác về chùa Hội Khánh”. Không chỉ có giá trị cao nói về sự tĩnh tâm, thanh tịnh của nhà chùa mà còn mang đậm phong cách tao nhã trong thi ca. Dưới đây xin trích lại một phần diễn ý ra Quốc ngữ của một trong số bài thơ đó: “…Giữa đám cỏ xanh dựng lên chùa như tại một cảnh tiên/ Lòng vui rảo bước qua khu rừng khoe màu sắc/ Đêm ở lại chùa cùng các tăng đàm đạo/ Nơi Phật đường yên vắng ngồi tĩnh dưỡng/ Im lặng tĩnh tâm quay lại với chính mình…”.
Chưa hết, nhiều người từng đến đây và có không ít người thuộc Lào câu đối của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) còn lưu ở chùa Hội Khánh, với ý nghĩa ngôn từ hàm xúc của thiền học: Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để Nguyệt/ Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thẳn thụ đầu Phong. (tạm dịch: Mở rộng đạo giáo lớn như sừng thỏ, như mò trăng đáy nước/ nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa, như cột gió đầu cây).
Từ khi xây dựng đến nay chùa đã trải qua 10 vị trụ trì, trong đó không ít vị cao tăng đức cao đạo trọng, nổi danh cả Nam bộ. Ngoài thiền sư Đại Ngạn, người khai sơn sáng lập chùa và có công hoằng pháp khá sớm ở địa phương này, còn phải kể đến Hòa thượng Từ Văn, trụ trì đời thứ 6, đã được phong Tăng thống Hội Phật giáo Nam Kỳ. Hòa thượng Từ Văn đã đào tạo nhiều đệ tử tài đức, có công đức với đạo pháp cũng như với dân tộc, trong đó có nhà sư yêu nước Hòa thượng Từ Tâm, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo năm 1940. Hòa thượng Từ Văn lúc đương thời còn được xếp hàng đầu các danh tăng ở Nam bộ nên được giới phật tử phong tặng cho Ngài là “Hòa thượng cả”. Năm 1920, người Pháp đã cho mời Ngài qua Tây chủ lễ cầu siêu cho binh lính người Việt chết trận cho nước họ trong Thế chiến thứ nhất. Cũng có tư liệu cho rằng Ngài được mời tham dự cuộc đấu xảo của các xứ thuộc địa Pháp tại Mairseille, cùng với một số mô hình kiến trúc phiên bản đình chùa, ảnh tượng điêu khắc trong đó có bộ tượng Thập Bát La Hán.
Đáng lưu ý là trong những năm 1923 – 1926, Hòa thượng Thích Huệ Thông cho biết chùa Hội Khánh đón nhận một nhà nho từ Huế vào tá túc để dạy chữ và bốc thuốc cho bà con trong vùng. Nhà nho ấy chính là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, sau khi cụ chán cảnh quan trường nịnh hót của lũ tham quan, cụ đã “rũ áo từ quan”. Trong khoảng thời gian lưu lại chùa Hội Khánh, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cùng với Hòa thượng Từ Văn chung tay lập ra “Hội danh dự yêu nước”. Mục đích của Hội là đề cao đạo đức lối sống, coi trọng danh dự và lòng yêu quý đồng bào, đất nước. Mặc dù thời gian hoạt động của Hội không dài, nhưng thông qua “Hội danh dự yêu nước” đã thổi một luồng sinh khí mới trong việc định hướng cho các phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân Thủ Dầu Một lúc bấy giờ. Những lời nói, việc làm của các cụ trong “Hội danh dự yêu nước” trực tiếp hay gián tiếp đều để lại cho dân chúng địa phương một ấn tượng tốt đẹp, ảnh hưởng sâu sắc đến lòng yêu nước của họ về sau.
Sau Cách mạng Tháng Tám, chùa Hội Khánh là trụ sở Hội Phật giáo Thủ Dầu Một, đã góp nhiều công sức tâm huyết kể cả xương máu của các nhà tu, phật tử nhà chùa trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân địa phương. Từ năm 1953, chùa là trụ sở Phật giáo yêu nước tỉnh Bình Dương và đến năm 1983 chùa Hội Khánh là trụ sở của tỉnh hội Phật giáo Bình Dương.
Năm 2008, Phật Đài quy mô cao 22 mét được xây dựng ở khu đất phía trước chùa, tầng trệt là dãy nhà dùng làm trường Phật học, thư viện, tầng trên an vị tượng Đức bổn sư Thích ca nhập niết bàn cao 12 mét, dài 52 mét. Đây là một công trình mỹ thuật đáng tự hào của Phật giáo Bình Dương, được khánh thành trọng thể vào ngày rằm tháng 2 năm Canh Dần, tức ngày 30 tháng 3 năm 2010. Công trình tôn giáo mang tính chất lịch sử và mỹ thuật cao được tổ chức kỷ lục châu Á công nhận là tượng Phật nằm dài nhất châu Á, đồng thời cũng dài nhất Việt Nam.
Cao Phương
Gửi bình luận