Ẩm thực Hà thành
Nhiều người Hà Nội khá cầu kỳ về ẩm thực. Sự cầu kỳ không hàm nghĩa sơn hào hải vị mà món ăn đó phải đúng gu, đúng kiểu.
Nói gì thì nói, cứ bước chân ra khỏi Hà Nội, không dễ dàng tìm ra món bún riêu, bún ốc, phở, bánh cuốn… theo đúng nghĩa mà những từ đó gợi lên. Lúc ấy mới thấy thấm thía cái câu “sảy nhà ra thất nghiệp”. Món ăn Hà Nội không chỉ là một nghệ thuật mà còn gắn liền với những kỷ niệm ấu thơ tôi. Còn nhớ hơn 20 năm trước, lũ chúng tôi thường rủ nhau ăn sáng ở một hàng bún riêu gần góc phố Yết Kiêu – Nguyễn Du. Hồi ấy, đó là một trong những món ăn rẻ tiền nhất, quán này lại ngon, đương nhiên là địa chỉ quen thuộc cho bữa sáng. Gạch cua được chế biến chắc nịch, rau sống thái rối trộn rau chuối, ớt bột chưng lên thơm gắt và không thể thiếu vị đặc trưng của mắm tôm. Tôi ăn sáng bằng bún riêu hầu như quanh năm ngày tháng. Nay bà hàng tóc đã bạc trắng, thỉnh thoảng gặp lại khách hàng trung thành giờ hầu không còn nét gì của đứa trẻ 12 tuổi nữa, bà vẫn kêu lên rằng “Cô không thay đổi gì mấy”.
Nói về sự trung thành với hàng quán có lẽ chăng tôi vẫn thua cha tôi. Hồi còn nhỏ, thỉnh thoảng ông vẫn đưa tôi lên hàng nộm rong ở phố Hoàn Kiếm. Đấy là con phố ngắn nhất Hà Nội, đã được đưa vào danh sách kỷ lục “phố ngắn”, nhưng chẳng cô gái Hà Nội nào mà lại không biết đến nó. Có khi họ đã quên tiệt tên phố Hoàn Kiếm mà gọi nó bằng “phố nộm”. Cha tôi kể rằng ông ăn nộm ở đây từ hồi 10 tuổi. Thuở ấy có ông lão đẩy xe hàng đứng bán nộm bò khô. Tiếng lách cách của kéo cắt thịt bò là âm thanh đặc trưng cho biết hôm nay ông lão có đi làm hay không ngay khi người ta vừa mới rẽ qua phố Cầu Gỗ. Ông lão “cụ tổ” của “phố nộm” giờ chắc đã thành người thiên cổ. Và trong vô số các chủ hàng nộm váy ngắn áo demi tối đi đánh tennis không rõ cô nào là con cháu ông cụ. Nghề bán nộm ở phố Hoàn Kiếm là một nghề hái ra tiền. Người ta chen chúc nhau vì nộm, người ta giận dỗi nhau vì (đưa) nộm chậm, người ta phấn khởi hoặc cáu kỉnh cũng vì nộm. Nộm ngày nay không giống thời xưa, ngoài thịt bò khô còn có đầy đủ cả xách bò, lá lách, chim quay, nem chua, bánh bột lọc nhân tôm… Bún riêu cũng không còn nguyên vẹn như thuở tôi ăn sáng 20 năm về trước. Nó nghễu nghện cả ốc to, ốc nhỏ trong đó, rồi thì là thịt bò tái, giò tai, đậu phụ rán, quẩy… Nhắc đến quẩy, 15 năm trước, phố Phan Bội Châu (góc Cửa Nam) đã từng là một “phố quẩy” chứ không phải phố giày dép hàng thùng như bây giờ. Cứ tối đến, nhất là những đêm mùa Đông giá trời, nam thanh nữ tú nườm nượp kéo đến những chiếc ghế nhựa ăn quẩy nóng. Người ta bán 100 đồng con một chiếc quẩy bé xíu, ăn kèm nước chấm pha ớt trộn dưa góp. Đấy là món tuyệt ngon, đặc biệt dành cho lũ học trò ít tiền.
Một góc phố Tạ Hiện (Hà Nội) về đêm
Không biết từ bao giờ, một dấu hiệu bất thành văn để quy định nhãn mác sành điệu trong giới tuổi teen Hà Nội là nắm trong tay tất cả các địa chỉ ăn uống sành điệu trong thành phố. Quần áo hàng hiệu, xe cộ thời trang cũng không là gì nếu như một cô nàng 18 tuổi lại không nghĩ ra nổi một địa chỉ nổi tiếng để… ăn phở buổi sáng. Ẩm thực là một trong những niềm đam mê vô tận của giới trẻ. Cho dù từ năm 2010 đã nhan nhản các thương hiệu KFC, Lotteria, Pizza Hut, Pepperonis, Phở Vuông, Phở 24… trên đường phố Hà Nội thì người Hà Nội (không hiểu sao) dù sang trọng hay bần hàn vẫn khoái chí ngồi chen chúc trên vỉa hè trong khói bụi, trong tiếng ầm ĩ của còi xe, tiếng càu nhàu của người bán hàng đông khách và giữa ánh mặt trời khô rang của mùa Hạ, những cơn gió thốc tháo lạnh tê của mùa Đông. Nhóm teen thì càng thích hơn nữa.
Này nhé, ốc luộc Liễu Giai, Lương Văn Can; phở bò Lò Đúc, Bát Đàn, Tôn Đức Thắng; phở gà Mai Hắc Đế, Đỗ Hành, Triệu Việt Vương; bún riêu Hòe Nhai, Phan Bội Châu, Thi Sách; bún chả Hàng Mành, Nguyễn Khuyến; bún ốc Mai Hắc Đế, Ô Quan Chưởng; bún ngan Hai Bà Trưng; bún gà ngõ Hàng Chỉ; bún cá Quán Thánh; nem tai Cầu Gỗ; cháo lòng Lò Sũ, Hàng Thùng; cháo trai Lê Văn Hưu; bánh mì Yết Kiêu, phố Huế; bánh cuốn Tô Hiến Thành; bánh gối Lý Quốc Sư; bún thang Lương Văn Can, Hàng Lược, Cầu Gỗ; bún mọc Bảo Khánh; phở cuốn Trúc Bạch; mỳ vằn thắn Mai Hắc Đế, Đinh Liệt; bún bò chợ Hàng Da; miến lươn Mai Hắc Đế; xôi gà Cấm Chỉ; gà tần Tống Duy Tân, chân gà nướng Nguyễn Thái Học … Thực ra, tôi cho rằng chỉ một phần ba những thương hiệu trên là xứng tầm ẩm thực. Tuy nhiên, cho dù thế nào thì những thương hiệu của họ cũng đã gắn liền với tên phố, đến độ cứ nhắc đến Bát Đàn là người ta thấy thoang thoảng mùi thơm nức của phở bò, nhắc đến ngõ Phất Lộc đã như nhìn thấy những miếng đậu vàng ruộm muốn ứa nước miếng.
Ăn uống trên vỉa hè cũng là một thú vui. Càng ngày càng nhiều món ăn du nhập vào Hà Nội làm tăng sự đa dạng của đất kinh kỳ vốn dĩ đã rất sành điệu về ẩm thực. Rồi người ta cũng sáng tác thêm rất nhiều món ăn lạ để kích thích thực khách.
Dù thế nào, người Hà Nội đi xa không thể không nhớ da diết cảm giác giữa đêm Đông giá rét, thoảng đâu đây vị mật đang ứa ra từ những củ khoai lang nướng trên than củi ở một góc hè. Và ngay lúc đang viết bài này, cạnh máy tính của tác giả là một ly chè long nhãn ướp lạnh. Thứ chè chỉ có thể tìm thấy ở Hà Nội. Nó mang sự tinh tế và sang trọng trong thành phần tạo nên nó, cho dù chỉ là sen bọc trong nhãn. Nhãn đây phải là nhãn Hưng Yên, dày cùi, hạt nhỏ, vị ngọt sắc. Loại nhãn mỏng cùi của Sài Gòn, nhãn dày cùi nhưng không đủ độ ngọt của Thái Lan, nhãn tiêu nhỏ tí xíu… đều không thể tạo thành chè long nhãn. Làm chè long nhãn khá cầu kỳ. Muốn hạt sen sạch mắt và thẩm mỹ, người nấu phải chịu khó bóc lớp màng ngoài làm thâm hạt. Sau khi đun nhừ sen, phải chưng cất đường mới tạo ra vị thơm của đường nấu. Tách hạt ra khỏi cùi nhãn cần kiên nhẫn và tỉ mỉ, nếu không sẽ làm tả tơi vỏ bọc, khi nhồi sen vào sẽ vỏ một đằng nhân một nẻo. Mỗi ly chè long nhãn chỉ chừng vài hạt, nhưng đong đầy trong đó là sự cần mẫn của người làm, sự thanh tịnh của hạt quả thiên nhiên và sự trong ngọt, thơm bùi của vị giác. Mùa Hè, mới có sen và nhãn. Và cũng chỉ mùa Hè, người ta mới muốn thưởng thức một ly chè long nhãn mát lạnh. Ăn chè long nhãn, cho dù có đói khát cỡ nào cũng không nên theo cách của Trư Bát Giới nuốt chửng ba trái đào tiên. Cần phải nhấm nháp vị thơm của nhãn, vị bùi của hạt sen, vị thơm lựng của đường cất để mà tận hưởng, để khi rời xa Hà Nội, trong cái nắng nóng của Sài Gòn, Bangkok sẽ nhớ điên cuồng một ly chè long nhãn...
Bút ký của nhà văn Di Li
Gửi bình luận